Ung thư vú là gì? làm sao để phòng tránh bệnh ung thư vú ở phụ nữ
Ung thư vú là một dạng ung thư thường gặp nhất, đứng sau ung thư da, và là nguyên nhân thứ hai gây tử vong trong số các bệnh có liên quan đến ung thư đối với phụ nữ Hoa Kỳ & Có đến 75% số trường hợp ung thư vú ở phụ nữ không biết yếu tố nguy cơ... Tìm hiểu thêm về bệnh tay chân miệng, bệnh sỏi thận, viêm âm đạo, bệnh sởi, bệnh sốt xuất huyết Ung Thư Vú là gì? Ung...
Có thể bạn quan tâm:
Ung thư vú là một dạng ung thư thường gặp nhất, đứng sau ung thư da, và là nguyên nhân thứ hai gây tử vong trong số các bệnh có liên quan đến ung thư đối với phụ nữ Hoa Kỳ & Có đến 75% số trường hợp ung thư vú ở phụ nữ không biết yếu tố nguy cơ…
Tìm hiểu thêm về bệnh tay chân miệng, bệnh sỏi thận, viêm âm đạo, bệnh sởi, bệnh sốt xuất huyết
Ung Thư Vú là gì?
- Ung thư vú là các tế bào bất thường gọi là tế bào ung thư phát triển từ những tế bào ống (duct) hay những tế bào nang (lobule) của vú. Nếu không chữa trị sớm, các tế bào ung thư sẽ phát triển nhanh chóng trong vú, đi vào các mạch máu hay mạch bạch huyết, chạy tới các hạch, và có thể lây lan đến các bộ phận khác, gây ra đau đớn, tắc nghẽn cho cơ thể và cuối cùng mang đến sự chết. Ung thư vú đứng hàng đầu trong những loại ung thư phụ nữ Việt thường mắc phải.
- Ung thư vú là khối u ác tính bắt nguồn từ các tế bào vú. Một khối u ác tính là tập hợp các tế bào ung thư có thể phát triển xâm lấn các mô xung quanh hoặc di căn tới các mô xa hơn trong cơ thể. Ung thư vú hầu hết xảy ra ở phụ nữ, tuy nhiên nam giới cũng có thể mắc bệnh.
Dưới đây, chúng tôi sẽ trình bày một số yếu tố đưa đến sự gia tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư vú. Tuy nhiên, đa số phụ nữ mắc bệnh ung thư vú không có những yếu tố gia tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư vú. Chúng ta cần nhớ là tất cả phụ nữ đều có nguy cơ mắc bệnh ung thư vú. Điều quan trọng là phát hiện sớm bệnh ung thư vú khi bệnh này còn có thể được chữa lành hoàn toàn.
Bệnh Ung thư vú có nguy hiểm không?
- Ung thư vú là ung thư phổ biến nhất ở phụ nữ và cũng là nguyên nhân gây tử vong nhiều nhất ở phụ nữ trên toàn thế giới. Theo một thống kê gần đây, giữa năm 2008 và năm 2012, ung thư vú chiếm khoảng 29.4% tổng số loại ung thư ở phụ nữ và gây nên 17.9% tổng số ca tử vong do ung thư với nữ giới. Tại Việt nam, ung thư vú là loại đứng đầu trong các ung thư ở nữ giới ở Miền Bắc với tỉ lệ mắc chuẩn theo tuổi là 27,3/ 100.000 người, ở Miền Nam tỉ lệ này là 17,1/ 100.000 người, đứng thứ hai sau ung thư cổ tử cung. Tham khảo thêm các bệnh phụ nữ
- So với các bệnh ung thư khác, ung thư vú nếu được phát hiện sớm thì tỷ lệ chữa khỏi cao hơn hẳn. Tiên lượng của bệnh cũng tốt hơn so với một số loại ung thư khác như ung thư phổi, ung thư dạ dày…vv. Nếu được phát hiện ở giai đoạn đầu, khả năng chữa khỏi lên tới 99% nếu được điều trị tích cực, kịp thời. Các giai đoạn sau, tỷ lệ này giảm dần, cho đến giai đoạn cuối thì khả năng chữa trị còn 20%.
- Ung thư vú có liên quan đến yếu tố di truyền. Gen là một trong những yếu tố nguy cơ nổi trội ở bệnh ung thư vú. Nếu phụ nữ có gen đột biến BRCA1 và BRCA1 thì có nguy cơ mắc ung thư vú cao hơn những người khác. Đặc biệt, những người có tiền sử gia đình mắc ung thư vú hoặc ung thư buồng trứng thì nguy cơ mắc ung thư vú tương đối cao.
Các yếu tố nguy cơ gây ung thư vú
Có đến 75% số trường hợp ung thư vú ở phụ nữ không biết yếu tố nguy cơ. Các yếu tố nguy cơ gây ung thư vú:
- Giới: Nữ gặp nhiều hơn nam
- Tiền sử gia đình: có người bị ung thư vú (bà, mẹ, chị gái, em gái) thì nguy cơ mắc bệnh ung thư vú cao gấp 9 lần ở những người bình thường.
- Bản thân đã bị ung thư vú một bên.
- Tuổi > 35.
- Có kinh nguyệt sớm: dưới 12 tuổi.
- Mãn kinh muộn: sau 50 tuổi.
- Có bệnh lành tính ở vú: bệnh xơ tuyến vú không được điều trị.
- Có khẩu phần ăn nhiều mỡ động vật.
- Các nguyên nhân gây mất thăng bằng estrogen – progesteron: béo bệu sau khi mãn kinh; dùng quá nhiều estrogen, uống thuốc tránh thai kéo dài; kinh nguyệt rối loạn; không có con, sinh đẻ ít hoặc sinh con đầu lòng sau 30 tuổi.
Các loại ung thư vú thường gặp ở phụ nữ:
- Ung thư biểu mô tuyến vú tại chỗ (Dutal Carcinoma in Stu): Ung thư biểu mô tuyến vú tại chỗ (DCIS) là dạng phổ biến nhất của ung thư vú không xâm lấn, bắt đầu từ bên trong các ống dẫn sữa. DCIS được xếp vào nhóm “không xâm lấn” bởi vì nó không lan ra khỏi ống dẫn sữa vào bất cứ mô bình thường nào xung quanh. Bệnh không đe dọa tính mạng, nhưng trong một vài trường hợp ung thư biểu mô tuyến vú tại chỗ có thể làm tăng nguy cơ phát triển thành ung thư vú xâm lấn nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời.
- Ung thư biểu mô tuyến vú xâm lấn (Invasive Dutal Carcinoma): Tương tự như ung thư biểu mô tuyến vú tại chỗ, ung thư biểu mô tuyến vú xâm lấn cũng bắt đầu từống dẫn sữa. Tuy nhiên, ung thư biểu mô tuyến vú xâm lấn không cố định tại chỗ mà có thể di căn, lây lan sang các khu vực khác của cơ thể, bên ngoài tuyến vú. Ung thư biểu mô tuyến vú xâm lấn chiếm khoảng 80% trong tất cả các trường hợp mắc ung thư vú ở phụ nữ và 90% ở nam giới. Ung thư biểu mô tiểu thùy xâm lấn (Invasive Lobular Carcinoma) chiếm khoảng 10 – 15% trong các trường hợp ung thư vú xâm lấn. Loại ung thư này bắt đầu từ tiểu thùy hoặc tuyến sữa, sau đó các tế bào ung thư lây lan khắp cơ thể tương tự như ở ung thư biểu mô tuyến vú xâm lấn.
Các loại ung thư vú hiếm gặp ở phụ nữ:
- Ung thư vú thể viêm (Inflamatory breast cancer): Ung thư vú thể viêm là một dạng hiếm và tiến triển nhanh của bệnh ung thư vú. Ung thư vú thể viêm thường bắt đầu với tình trạng đỏ và sưng ở vú thay vì một khối u như các loại ung thư vú khác. Ung thư vú thể viêm có xu hướng phát triển và lây lan nhanh chóng, với các triệu chứng xấu đi trong vài ngày thậm chí vài giờ.
- Bệnh Paget của núm vú: Đây là loại ung thư thường bắt đầu từ các ống dẫn sữa của núm vú (những đường ống nhỏ chứa sữa), sau đó lan rộng ra bề mặt núm vú và quầng vú (vùng da hình trong tối màu xung quanh núm vú). Núm vú và quầng vú thường có vảy, gây ngứa, đỏ và cảm giác khó chịu. Bệnh Paget của núm vú rất hiếm, chỉ chiếm khoảng 1% của tất cả các trường hợp ung thư vú. Tuy nhiên cần để ý các triệu chứng của bệnh vì thực tế có tới 97% những người bị Paget của núm vú cũng có ung thư biểu mô tuyến vú tại chỗ hoặc ung thư biểu mô tuyến vú xâm lấn.
Nguyên nhân gia tăng nguy cơ bị ung thư vú ở phụ nữ
Hàng triệu phụ nữ trên thế giới đang dùng liệu pháp thay thế hoóc-môn (HRT) kết hợp estrogen, progestin để giảm chứng khó chịu ở giai đoạn mãn kinh. Tuy nhiên, các nghiên cứu dự đoán rằng liệu pháp điều trị này có thể làm tăng nguy cơ ung thư vú. Một nghiên cứu mới của Đại học Missouri – Columbia cho biết luteolin, một chất có trong các loại rau xanh, ví dụ như cần tây, có thể làm giảm bớt nguy cơ này. Nhóm các nhà khoa học này cho rằng luteolin có thể làm chậm quá trình tiến triển của các tế bào ung thư vú khi dùng liệu pháp thay thế hoóc-môn kết hợp estrogen tự nhiên và progestin tổng hợp.
Một nghiên cứu nữa được dẫn đầu bởi Salman Hyder, giáo sư trong lĩnh vực nghiên cứu sự tạo mạch khối u và giáo sư khoa học y sinh thuộc trường Đại học Veterinary Medicine và Trung tâm nghiên cứu tim mạch Dalton, vừa được công bố trong Springer Plus. Hyder giải thích rằng phần lớn các phụ nữ lớn tuổi thường có sẵn các sang thương lành tính trong mô tuyến vú, ‘các sang thương này thường không tạo thành khối u nếu không có tác nhân kích thích – như progestin trong trường hợp này – chúng thu hút các mạch máu đến các tế bào, cung cấp dưỡng chất cho các sang thương và làm cho các sang thương này càng lan rộng ra’. Hyder đã chỉ ra rằng ‘khi các tế bào ung thư vú phát triển, chúng giữ lấy các tế bào có đặc tính như tế bào thân, từ đó giúp chúng khó tiêu diệt hơn’.
Luteolin có thể giúp được gì?
Trong nghiên cứu, các tế bào ung thư vú được phơi nhiễm với luteolin in vitro ở các nồng độ khác nhau trong 24 hoặc 48 giờ. Kết quả là khả năng tồn tại của tế bào ung thư giảm một cách rõ rệt, trên cả hai yếu tố thời gian và nồng độ. Các mạch máu cung cấp dưỡng chất cho các tế bào ung thư giảm đáng kể, dẫn đến sự tiêu diệt các tế bào ung thư, đồng thời cũng giúp làm giảm các tế bào có đặc tính giống tế bào thân, là những tế bào thường thúc đẩy sự phát triển của tế bào ung thư. Để chứng minh kết quả này, Hyder đã sử dụng luteolin cho những con chuột ung thư vú trong phòng thí nghiệm và kết quả cho thấy sự hình thành mạch máu cũng như các đặc tính của tế bào thân đã giảm rõ rệt.Từ đó cho thấy luteolin có khả năng phòng ngừa hoặc ngăn cản sự phát triển của khối u bằng nhiều cách khác nhau.
Nhóm nghiên cứu hi vọng các nghiên cứu sâu hơn, nếu thành công, có thể đưa ra một loại thuốc mới có thể giúp điều trị một số kiểu ung thư vú nặng và khó điều trị. Thuốc có thể được sử dụng bằng cách tiêm trực tiếp vào mạch máu. Đồng thời, Hyder kêu gọi phụ nữ hãy tiếp tục áp dụng chế độ ăn hợp lý giàu rau xanh và trái cây. Luteolin hiện diện trong các loại rau như húng tây, mùi tây (ngò rí), cần tây và bông cải xanh.
Ung thư vú là một dạng ung thư thường gặp nhất, đứng sau ung thư da, và là nguyên nhân thứ hai gây tử vong trong số các bệnh có liên quan đến ung thư đối với phụ nữ Hoa Kỳ.
HRT cũng là một trong những phương pháp điều trị được sử dụng rộng rãi nhất ở Hoa Kỳ. Nếu một thuốc có tác dụng điều trị cao và không có tác dụng phụ nguy hiểm đe dọa tính mạng thì chắc chắn thuốc đó sẽ được lựa chọn sử dụng.
Đã từ lâu, sự hiện diện của gen BRCA đã được dự đoán là yếu tố nguy cơ cao gây ung thư vú. Một bài báo gần đây trên Medical News Today cảnh báo rằng rất ít phụ nữ được chẩn đoán mắc ung thư vú sau khi kiểm tra gen BRCA, bởi vì rất có thể đó không phải là yếu tố quyết định để chẩn đoán ung thư vú.
Trang Phạm (Hosrem.org.vn/Medical News Today)
(Nội dung do Vụ Sức khỏe Bà mẹ – Trẻ em, Bộ Y tế kiểm duyệt)